Dòng Nội dung
1
Kết quả phẫu thuật thay van hai lá ít xâm lấn có nội soi hỗ trợ qua đường ngực phải / Phạm Quốc Đạt, Dương Đức Hùng, [...và những người khác] // Tạp chí Nghiên cứu Y học . - 2021. - tr. 135-145. - ISSN: 2354-080X



Ký hiệu phân loại (DDC): 617
Trình bày về phẫu thuật van hai lá ít xâm lấn mới được triển khai tại Việt Nam, do vậy các dữ liệu về kết quả theo dõi bệnh nhân sau khi ra viện còn hạn chế. Mục đích nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả sớm và trung hạn của phẫu thuật thay van hai lá ít xâm lấn có nội soi hỗ trợ qua đường ngực phải tại viện tim mạch, Bệnh viện Bạch Mai. Nghiên cứu mô tả tiến cứu bao gồm 85 bệnh nhân (BN) bệnh van hai lá được phẫu thuật thay van hai lá ít xâm lấn trong thời gian từ tháng 1/2018 đến 5/2020. Kết quả cho thấy tổng số 85 bệnh nhân, tuổi trung bình 50,9 ± 10,8 năm, nam giới chiếm 41,2%. Thời gian chạy máy, cặp động mạch chủ lần lượt là: 95,2 ± 17,5 và 63,7 ± 14,6 phút. Thời gian thở máy, nằm hồi sức, nằm viện trung bình lần lượt là: 17,2 ± 29,3 giờ; 57,0 ± 80,8 giờ và 11,8 ± 5,4 ngày. Biến chứng sớm gồm: chuyển mở xương ức trong mổ 1 bệnh nhân (1,2%); mổ lại do chảy máu 2 bệnh nhân (2,4%), tử vong sớm 1 bệnh nhân (1,2%). 84 bệnh nhân được theo dõi với thời gian trung bình 14,4 ± 8,0 tháng, có 1 bệnh nhân (1,2%) tử vong; 3 bệnh nhân (3,6%) mổ lại. Kết quả sớm và trung hạn của phẫu thuật ít xâm lấn qua đường mở nhỏ ngực phải thay van hai lá là khá khích lệ, tuy nhiên cần đánh giá trong thời gian dài hơn.
Số bản sách: (0) Tài liệu số: (1)
2
Phẫu thuật thay van hai lá ít xâm lấn có nội soi hỗ trợ qua đường ngực phải điều trị bệnh lý van hai lá do thấp / Phạm Quốc Đạt, Dương Đức Hùng, [...và những người khác] // Tạp chí Nghiên cứu Y học . - 2020. - tr. 102-111. - ISSN: 2354-080X



Ký hiệu phân loại (DDC): 615
Phẫu thuật van hai lá ít xâm lấn đã phát triển trên thế giới, tuy nhiên những dữ liệu trên bệnh lý van hai lá do thấp còn hạn chế. Mục đích nghiên cứu nhằm mô tả kỹ thuật và đánh giá kết quả sớm khi ứng dụng phẫu thuật ít xâm lấn qua đường mở ngực phải điều trị bệnh lý van hai lá do thấp tại viện tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai. Nghiên cứu mô tả tiến cứu bao gồm 23 bệnh nhân (Bệnh nhân) bệnh Van hai lá do thấp được phẫu thuật thay van hai lá ít xâm lấn qua đường mở nhỏ ngực phải trong thời gian từ tháng 1/2018 đến 12/2018. Tổng số 23 Bệnh nhân, nam giới có 8 bệnh nhân (34,9%), tuổi trung bình 52,2 ± 8,4 năm; 18 bệnh nhân (78,3%) thay van hai lá cơ học bằng kỹ thuật khâu vắt; 5 bệnh nhân (21,7%) bệnh nhân thay van sinh học bằng kỹ thuật khâu mũi rời. Thời gian chạy máy trung bình 92,6 ± 18,5 phút, thời gian cặp động mạch chủ 61,6 ± 17,2 phút. Thời gian thở máy trung bình 15,6 ± 10,6 giờ, thời gian nằm hồi sức 47,3 ± 15,5 giờ, thời gian nằm viện trung bình 10,5 ± 3,9 ngày. Không có bệnh nhân phải chuyển mở xương ức. Tỷ lệ tử vong trong 30 ngày 0%. Siêu âm tim trước khi ra viện, van nhân tạo hoạt động tốt. Kết quả ban đầu cho thấy đây là phương pháp an toàn, khả thi với những kết quả sớm rất khích lệ. Tuy nhiên cần đánh giá trên số lượng Bệnh nhân lớn hơn, trong thời gian dài để đánh giá hiệu quả thực sự của phương pháp.
Số bản sách: (0) Tài liệu số: (1)
3
So sánh hiệu quả giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê mặt dưới cơ dựng sống (esp block) với phương pháp pca bằng Morphin đường tĩnh mạch cho phẫu thuật tim có nội soi / Dương Thị Hoan, Dương Đức Hùng, [...và những người khác] // Tạp chí Nghiên cứu Y học . - 2020. - tr. 120-130. - ISSN: 2354-080X



Ký hiệu phân loại (DDC): 617
Trình bày về việc so sánh hiệu quả giảm đau sau mổ của phương pháp ESP block so với phương pháp PCA (bệnh nhân tự điều khiển) bằng morphin tĩnh mạch cho phẫu thuật tim có nội soi. Nghiên cứu can thiệp lâm sàng, ngẫu nhiên, có đối chứng. Từ tháng 3 năm 2019 đến tháng 8 năm 2020; 68 bệnh nhân mổ phiên phẫu thuật tim qua đường ngực phải có nội soi. Các thông số khí máu, HATB các thời điểm nghiên cứu tương đồng như nhóm chứng. Không gặp các biến chứng thần kinh, chảy máu, nhiễm trùng do gây tê. Phương pháp gây tê mặt dưới cơ dựng sống (ESP block) có hiệu quả giảm đau tốt cho phẫu thuật tim có nội soi đường ngực, một số thời điểm có điểm đau thấp hơn PCA bằng morphin tĩnh mạch. Lượng morphin tiêu thụ ở nhóm nghiên cứu giảm so với nhóm chứng. Không gặp biến chứng nặng liên quan đến gây tê mặt dưới cơ dựng sống
Số bản sách: (0) Tài liệu số: (1)