Dòng
|
Nội dung
|
1
|
Đánh giá khả năng đáp ứng của điều dưỡng trong phòng và xử trí phản vệ tại bệnh viện 19-8 bộ công an năm 2021 / Phạm Ngọc Quang, Hoàng Thanh Tuyền, Vũ Văn Đẩu // Tạp chí Khoa học Điều dưỡng . - 2021. - tr. 122-131. - ISSN: 2615-9589
Ký hiệu phân loại (DDC): 615 Mô tả thực trạng khả năng đáp ứng của điều dưỡng trong phòng và xử trí phản vệ tại Bệnh viện 19-8 Bộ Công An năm 2021; Xác định một số yếu tố liên quan đến khả năng đáp ứng của điều dưỡng trong phòng và xử trí phản vệ tại Bệnh viện 19-8 Bộ Công An năm 2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, đã được thực hiện với cỡ mẫu là 258 điều dưỡng viên theo tiêu chuẩn chọn mẫu.Thái độ nhân biết phản vệ đạt và thái độ dự phòng phản vệ đạt là những yếu tố có ý nghĩa thống kê với khả năng xử trí phản vệ của đối tượng nghiên cứu. Đối tượng thực hành nhận biết phản vệ đạt khả năng xử trí phản vệ cao hơn so với những người thực hành nhận biết phản vệ chưa đạt . Do vậy, cần tăng cường tổ chức tập huấn bổ sung, cập nhật các kiến thức về nhận biết, dự phòng và xử trí phản vệ trong bệnh viện định kỳ hàng năm để duy trì, củng cố và cải thiện khả năng nhận biết, dự phòng và xử trí phản vệ các điều dưỡng viên. Số bản sách:
(0)
Tài liệu số:
(1)
|
2
|
Đánh giá tác dụng của khí công với thay đổi tỉnh trạng mệt mỏi, khó thở và lo lăng trên người bệnh ung thư phổi tại một số Bệnh việt ở Việt Nam / Vũ Văn Đẩu, (...và những người khác) // Tạp chí Khoa học Điều dưỡng . - 2019. - tr. 87-95. - ISSN: 2615-9589
Ký hiệu phân loại (DDC): 616 Đánh giá hiệu quả của tập khí công đối với việc thay đổi tình trạng khó thở, mệt mỏi và lo lắng ở người bệnh ung thư phổi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng thực hiện trên 2 nhóm: nhóm có luyện tập khí công và nhóm đối chứng. Đối tượng nghiên cứu là 156 người bệnh ung thư phổi được lựa chọn và phân bổ ngẫu nhiên vào 2 nhóm. Dữ liệu được thu thập bằng cách sử dụng bộ câu hỏi được thiết kế sẵn để đánh giá hiệu quả của tập khí công đối với việc thay đổi tình trạng khó thở, mệt mỏi và lo lắng ở người bệnh ung thư phổi tại các thời điểm: T0 (trước khi phân nhóm), T1 (cuối giai đoạn can thiệp - sau 6 tuần) và T2 (kết thúc của thời gian theo dõi - 12 tuần sau khi phân nhóm). Kết quả: Không có sự khác biệt về thống kê giữa 2 nhóm về mệt mỏi và lo lắng, điều đó có nghĩa là khí công không cải thiện sự mệt mỏi, lo lắng. Khí công cải thiện đáng kể chứng khó thở vào tuần thứ 6 với chênh lệch trung bình là 1,15 (p = 0,011) và tuần thứ 12 chênh lệch trung bình là 1,50 (p = 0,025) giữa nhóm khí công và nhóm chứng. Số bản sách:
(0)
Tài liệu số:
(1)
|
3
|
|
4
|
|
5
|
|
|
|
|
|